Thứ Bảy, 7 tháng 4, 2012

SỔ TAY DƯỠNG SINH OHSAWA

SỔ TAY DƯỠNG SINH OHSAWA
TỈ LÊ QUÂN BÌNH TRONG MỘT NGÀY:
Khoảng từ 79 - 90% đồ ngũ cốc nguyên cám. Từ 30 - 10% rau quả khô hoặc xanh.
- Ngũ cốc gồm: Lúa mì, gạo lứt, kê, bắp, bo bo, lúa mạch, đại mạch, hắc mạch, kiều mạch, v.v..
- Các loại rau quả và gia vị nên dùng:
+ Cà rốt, củ cải, bí ngô, hành tỏi, kiệu tây, bắp su trắng, rau dền, rau xà lách son, rau má, rau bồ ngót, cải bẹ xanh, v.v... (rau củ mọc thiên nhiên và rau củ sạch không sử dụng phân hóa học và thuốc trừ sâu).
+ Nước uống: Nước thiên nhiên, trà bancha, trà gạo lứt, trà củ sen, trà bồ công anh.
+ Chất béo: Dầu mè, dầu phộng (Mức tối đa là 2 muỗng canh dầu một người một ngày)
+ Trái cây: Trái gất, dâu tây, hạt dẻ, trái cây thiên nhiên và đúng mùa.
+ Đường: Nếu sức khỏe ổn định thì có thể sử dụng đôi chút đường đen, đường thốt nốt, đường phèn, mạch nha.

NHỮNG THỨC UỐNG, MÓN ĂN NÊN TRÁNH DÙNG ĐẾN LÀ:
+ Tất cả các loại cà, măng, giá, nấm, khoai tây, đậu leo, rau bá hợp, dưa gang, bắp su đỏ, củ cải đường.
+ Bơ, sữa, đồ ăn chế bằng phomát.
+ Trái cây: Các đồ tươi sống và đường (trong lúc đang trị bệnh).
+ Gia vị: Tiêu, ớt, cà ri.
+ Nước uống: Luôn luôn uống nước ấm (khoảng 37 độ) và khoảng 3 xị (0,75 lít) trở lại.
SAU ĐÂY MỘT SỐ ĐIỀU CẦN LƯU Ý:
- Về tâm trạng: Không vui, không khỏe thì không nên ăn và cũng không được nấu ăn.
- Về đại tiện: Phân luôn màu vàng, chặt, không rã nát và đúng giờ vào buổi sáng. Nếu là phân khác là âm hơn, hoặc dương hơn thì cần phải điều chỉnh lại.
- Về tiểu tiện: Phụ nữ không đi tiểu quá 3 lần trong ngày. Nam không đi quá 4 lần trong ngày.
Lưu ý: Đường ruột đang tốt là một ngày chỉ đi đại tiện một lần vào buổi sáng và chỉ nên súc miệng một lần vào buổi tối (Bột chà răng)
- NƯỚC UỐNG: Một người quá âm, hay bệnh về gan thì nên sử dụng trà gạo lứt rang và trà bồ công anh.
- Trà củ sen tốt cho người bệnh phổi. Trà bancha tốt cho bệnh tim mạch, đường ruột, bao tử (Tốt nhất là được sự hướng dẫn của người có kinh nghiệm).
DẦU MÈ GỪNG: Giã nát, hoặc mài gừng tươi, vắt lấy nước cốt trộn đều với một lượng dầu mè tương đương. Dùng xoa hay đánh gió khi cảm sốt, xoa bóp khi nhức mỏi, tức, trặc, đau bụng, sưng u, bôi lên vết lở ở tai, mũi, ghẻ lác, xức dầu trị gầu và rụng tóc. Chỉ nên làm vừa đủ dùng trong 2-3 ngày, vì để lâu gừng thối, có mùi khó chịu; có thể dùng xen kẻ với áp nước gừng.
CAO HẠ NHIỆT: Ngâm đậu nành với nước cho mềm, giã nát và trộn thêm ít bột gạo cho khỏi nhão, rồi đem đắp lên trán để hạ sốt (Xem chừng thân nhiệt hạ còn 38,5 độ thì lấy ra ngay), hoặc đắp những chỗ viêm nhức (Không dùng trong trường hợp ban, sởi, tót, rạ, đậu mùa).
BỘT GẠO LỨT SỐNG: Nhai nhỏ gạo lứt sống với vài hạt muối sống, hoặc giã thành bột mịn trộn nước và tí muối cho dẻo, đem đắp vào vết thương, vết lở loét, hoặc ghẻ chốc.
NHỮNG TRỞ NGẠI TRONG DƯỠNG SINH
Trị liệu theo pháp Thực Dưỡng thiên về giáo dục, chữa con người hơn là chữa bệnh; nghĩa là giúp bệnh nhân tự suy xét lại bản thân mình về mọi mặt, từ thể chất đến tinh thần, hầu tránh đi những việc làm có hại cho mình và cho người khác; đồng thời tổ chức được một nếp sống lành mạnh, vui tươi và hữu ích hơn. Bởi vậy, nếu sử dụng phương pháp Thực Dưỡng thuần túy để chữa bệnh có tính cách tạm thời, thường sẽ không thành công theo ý muốn. Sau đây là một số trở ngại cho việc áp dụng phương pháp này trong trị liệu:
1. QUÁ MUỘN: Đối với những trường hợp quá muộn, nghĩa là cơ thể đã suy thoái trầm trọng. Ví dụ như đến mức cùng thì phương pháp Thực Dưỡng, một đường lối trị bệnh dựa vào cơ chế miễn nhiễm tự nhiên, có thể không đủ thời gian cứu con bệnh. Tuy nhiên, nếu áp dụng phương pháp này, những bệnh nhân quá muộn vẫn hưởng được nhiều lợi ích như không bị đau đớn hành hạ và ra đi êm thắm.
2. THIẾU NIỀM TIN VÀ Ý CHÍ: Nếu không tin tưởng tuyệt đối vào những hướng dẫn của phương pháp này, bệnh nhân rất dễ sai phạm hoặc bỏ dở nửa chừng do ý kiến của những người không am hiểu vấn đề, hoặc dễ bị lôi cuốn bởi những món ăn thức uống “cấm kỵ”.
3. THIẾU NGHIÊN CỨU: Niềm tin và ý chí được củng cố qua sự nghiên cứu lý thuyết sách báo Thực Dưỡng và học hỏi những người có kinh nghiệm, nhất là những người đồng bệnh đã và đang theo phương pháp này. Đồng thời phải lưu tâm theo dõi những biến chuyển của cơ thể và vận dụng những điều đã nghiên cứu, học hỏi để lấy kinh nghiệm cho bản thân.
4. KHÔNG ĐƯỢC GIA ĐÌNH, THÂN NHÂN HỖ TRỢ: Nếu những người trong gia đình bệnh nhân, nhất là người có phận sự chăm sóc trực tiếp không hiểu biết, hoặc không đồng tình ủng hộ, thì có thể vì lòng “thương” sẽ làm “hại” diễn tiến cải thiện sức khỏe theo phương pháp Thực Dưỡng.
5. NHỮNG SAI LẦM KHÁC: Ngoài những sai lầm đã nói như: nhai không kỹ, ăn nhiều, uống nước nhiều, nhịn ăn không cẩn thận, v.v... Người mới thực hành thường mắc một số sai lầm khác như:
- Dương quá độ: Nhiều người lầm tưởng yêu cầu của Thực Dưỡng là “càng dương càng tốt”, nên ra sức ăn thật mặn, cố nhịn nước dù khát, vận động thể lực tối đa, hoặc ăn toàn các món nướng, rang, chiên, dù đang trong mùa hè, v.v... Sự việc này có thể vượt mức chịu đựng của cơ thể, gây ra tình trạng kiệt sức, hoặc những phản ứng mãnh liệt dẫn đến sự “phá giới” vô cùng nguy hiểm. Các bạn nhớ cho chủ trương của phương pháp Thực Dưỡng là quân bình và điều độ.
- Không biết linh động: Thường đây là những người không chịu đọc sách báo Thực Dưỡng và thiếu tìm hiểu thực tế. Thí dụ trẻ con và người già răng yếu không biết nấu nhừ, hoặc xay, giã nhỏ vật thực trước khi ăn,
hoặc không biết chế biến thực phẩm cho dễ ăn, hoặc có người cứ ăn mãi gạo lứt muối mè lâu ngày sinh chán, v.v...
Trong vũ trụ này, mọi sự vật đều vận động và biến hóa không ngừng, nào ngày đêm đắp đổi, nào bốn mùa luân chuyển, khi nắng khi mưa và cuộc sống con người cũng đa dạng. Vì vậy, để có thể tồn tại, sống vui qua năm tháng của đời người, chúng ta không nên đóng khung vào một khuôn mẫu hoặc một công thức cố định, mà phải biết thích ứng với mỗi đổi thay, khác biệt của từng cá nhân theo thời gian và không gian. Đồng thời cũng nên biết không có hiện tượng nào thuần Âm hoặc thuần Dương, mà bao gồm cả Âm lẫn Dương.
Trong sinh hoạt hàng ngày cũng như trong chữa trị bệnh, chúng ta nên tuân theo nguyên lý này; lẽ dĩ nhiên có lúc Dương hơn và có lúc cần Âm hơn.
PHÉP DINH DƯỠNG CẦN ĐƯỢC TUÂN THỦ TRIỆT ĐỂ TỪ BA TUẦN ĐẾN MỘT THÁNG
Vài phản ứng có thể xảy ra cần được biết đến vào thời kỳ đầu sau khi áp dụng phương pháp dinh dưỡng này:
- Cảm giác suy nhược, cảm thấy chân bị bại liệt từng phần, do nơi nguồn gốc tâm linh và cũng do nơi giảm thiểu số lượng huyết dịch lưu thông trong cơ thể. Sau khoảng 15 ngày đến 1 tháng, trạng chứng này sẽ mất đi.
- Thường tim đập chậm lại, nhất là khi ta dùng một số lượng muối khá nhiều, vô hại. 
- Đau đầu thường xảy ra vào những ngày đầu trong thời gian ăn số 7.
- Trạng thái buồn nôn, cũng thường hay mửa cả đồ ăn và mật (đảm trấp), ớn cơm (nói chung các đồ ăn ngũ cốc). Đừng ngại cứ ăn ít lại, vài ngày sau sẽ ăn ngon trở lại, vẫn cứ làm việc như bình thường.
- Chảy máu cam máu mũi, đôi khi thổ huyết, hoặc tiện huyết ( phẩn có vấy máu). Cũng gặp trường hợp chảy máu tai; hầu hết các trạng thái khủng hoảng này đều được cải thiện sau đó.
- Nhất là ở thiếu nữ thường có sự ngưng chỉ kinh nguyệt, thay đổi từ 1 đến 6 tháng, sau đó kinh nguyệt sẽ trở lại.
- Về phía nam giới, đôi khi có trạng chứng bất lực trong một thời gian ngắn, có thể cũng cùng một trạng chứng như trên.
- Rất thường xảy ra trường hợp táo bón vào lúc đầu do nơi sự thiếu nước và do sự giảm thiểu số lượng thực phẩm, nhưng không có gì đáng quan tâm, chớ dùng thuốc nhuận trường, không có nguy hại vì không có đản bạch tinh (Protéines) động vật. Chịu khó chờ đợi, sự đi tiêu sẽ được điều hòa trở lại. Trong một thời kỳ
nào đó, nghe phân không có mùi hôi thúi gì cả.
- Trong tháng đầu, hầu hết đều gầy hẳn xuống.
- Ở những người mắc bệnh phong thấp thường có sự gia tăng đau nhức và sưng khớp xương tạm thời.
- Về phương diện tinh thần, hình như luôn có một thời kỳ hay nổi xung (dễ phát cáu), chán đời do một số nơi cảm giác khát nước đến bắt khó chịu. Người ta thường hay bỏ cuộc vào thời kỳ này, việc rất thường thấy; cần phải tiên liệu trước để chịu đựng.
- Giấc ngủ bị rút ngắn lại, thường có mộng mị liên miên vào lúc đầu, đôi khi rất nhanh; nhưng trái lại, không hề có sự mất ngủ.
- Thường thường nước tiểu có mầu rất đậm và chứa nhiều chất lạ. Cả đến khi khối lượng nước tiểu trong trở lại, nhưng vẫn phải giữ cho được màu vàng sẫm. Đôi khi có trường hợp sưng bọng đái nhẹ.
- Đôi khi có phản ứng cảm sốt bất thình lình trong vòng 24 đến 48 giờ, rồi dứt đi cũng thình lình như thế mà không thấy có dấu hiệu chi hết. 
- Mặc dù có cảm giác mệt mỏi vào lúc đầu, cũng cần phải tiếp tục công việc và cố gắng tập một vài cử động thể dục hàng ngày.
- Sự tiếp tục dùng thức ăn thuộc động vật trong khi giảm uống và ăn nhiều muối thêm sẽ rất có hại.
GIẢI ĐÁP MỘT SỐ THẮC MẮC THÔNG THƯỜNG LIÊN QUAN ĐẾN TÂM TRẠNG
- Ngại thiếu chất đạm bạch tố (Protéines) thuộc động vật:
Các chất đạm bạch tố thực vật đã có đủ, các acid amines trong loại ngũ cốc và rau quả như: biến đậu (Lentilles), đậu xanh chẳng hạn đủ bổ túc cho chỗ thiếu thốn ấy. Một vài loại thảo mộc có giá trị bổ túc cho đồ ăn ngũ cốc hơn hẳn các món ăn thịt cá, hoặc sữa như bánh dầu mè (xác mè sau khi ép lấy dầu rồi), hay xác dầu quỳ (công cuộc khảo cứu của bà Randoin). Nó chỉ thua có mỗi một thứ đản bạch tố ở trứng mà thôi. Các đồ ăn bổ túc cho loại ngũ cốc là những đồ ăn mang tới cho cơ thể những chất không có trong ngũ cốc.
- Sợ thiếu sinh tố C chăng?
Các cuộc khảo cứu thảo mộc mới đây ở Nhật và ở Anh đã chứng tỏ rằng trong các loại ngũ cốc (Paovitamine C) sự chịu nóng tới ngoài 150 độ và cơ thể người ta có thể tổng hợp và chuyển hóa nó thành sinh tố C. Ngoài ra, trong các thức ăn, thực dụng như ngò tây (Persil) và bồ công anh (Pissenlit) chẳng hạn, người ta cũng nhận thấy có nhiều sinh tố C trong cám hay cà chua (tomate) và được kèm với một hàm lượng phong phú tương đương về sinh tố A. Các sinh tố khác thì đều có đầy đủ cả. Đại loại như sinh tố B và PP thấy có nhiều trong các loại ngũ cốc và sinh tố E trong mầm ngũ cốc. Về sinh tố D thì có trong mầm các loại ngũ cốc còn nguyên cám và trong bột kiều mạch (Flocon davoine). Còn lại các sinh tố thuộc nhóm F do nơi các acid béo bất bão hòa trong các loại dầu thảo mộc sinh ra. Các acid béo giúp đắc lực cho sự biến hóa chất Cholesterol ở cơ thể người. Các thức loại nên dùng: dầu mè (vừng) và dầu quỳ (Tourynesil) cả dầu ô liu (cảm lảm) nữa. Trong các chất béo có nguồn gốc động vật và chất magarine (loại mở trứng) đều có tác dụng độc hại (công cuộc khảo cứu của bà Randoin đăng tải trong Công báo của Viện Vệ sinh thực phẩm năm 1975)
- Sợ sự hạn chế nước uống sẽ làm cho thận mệt chăng?
Trái hẳn lại, chúng ta hãy nhớ lại những kết quả tuyệt hảo trong thực chế khô của Volhard trong việc chữa trị chứng sưng thận cấp tính khuếch tán (Người Đức đã dùng từ 7 đến 10 ngày để áp dụng thực chế khô táo này).
Ngoài ra, thận tạng có khả năng bài tiết chất muối (ClNa) trội hơn khả năng người thường tưởng tới. Thận tạng của một người có thể thải ra cứ mỗi lít nước tiểu là 30 gram ClNa và còn hơn thế nữa. Cho dù ăn 4, 5 muỗng cà phê muối mè mỗi ngày cũng không dung chứa tới trên 10 gram ClNa mỗi ngày, đó là điều rất thường. 
KẾT LUẬN:
Cơ bản của thực chế này là đúng theo cơ bản các phép dinh dưỡng cổ truyền của phần đông dân chúng nông thôn vạm vỡ ở Âu châu, ở các xứ Đông Dương, nhất là ở miền cực Đông. Sự quân bình dinh dưỡng ấy đã bị đảo lộn hẳn ở Tây phương. Ở đây chỉ có thể sửa đổi gia giảm một cách rất khôn ngoan. Các yếu tố có thể thay đổi được trong phép ăn này tùy theo tạng thể hoặc căn bệnh, là số lượng nước và muối, rồi đến tỷ độ tương quan về số lượng đồ ăn ngũ cốc và rau quả, là sự chọn lựa một số ngũ cốc hoặc rau quả, và dĩ nhiên thời kỳ cần phải thay đổi các tỷ lượng giữa những yếu tố này cho thích hợp với người bệnh.

PHÂN ĐỊNH ÂM DƯƠNG MỘT SỐ MÓN  ĂN VÀ THỨC UỐNG (HÌNH DƯỚI)

CÁCH NẤU CƠM GẠO LỨT VÀ RANG MÈ
PHÂN LƯỢNG GẠO LỨT, NƯỚC VÀ MUỐI: Một lon gạo (lon sữa bò) + hai lon nước (lon sữa bò) + một phần tư muỗng cà phê muối hầm (chú ý, không được dùng muối iốt và muối bọt, muối đã chế biến). Lượng nước có thể thêm bớt tùy theo loại gạo.
CÁCH NẤU GẠO LỨT BẰNG NỒI THƯỜNG (Không được nấu bằng nồi cơm điện): Nấu nước sôi, đổ gạo và một phần tư muỗng cà phê muối hầm vô nước sôi, khuấy đều. Đậy nắp, nấu cho sôi bùng lên rồi tắt lửa. Nhắc nồi xuống vẫn đậy nắp để 15 phút. Sau đó, nhắc nồi lên bếp, nấu tiếp lửa nhỏ cho đến khi chín.
CÁCH NẤU GẠO LỨT BẰNG NỒI ÁP SUẤT: Một gạo + một rưỡi nước (đong bằng lon sữa bò) + một phần tư muỗng cà phê muối hầm. Cho gạo, nước, muối vô nồi một lượt. Nấu sôi xì hơi, tắt lửa. Để yên 15 phút. Sau đó, nấu tiếp, lửa nhỏ, cho đến khi chín.
CÁCH NẤU CƠM GẠO LỨT TỐT NHẤT: CHƯNG CÁCH THỦY BẰNG NỒI ÁP SUẤT: Một chén gạo lứt nấu với hơn một chén nước. Nếu cơm khô, thêm nước; nếu cơm nhão, bớt nước (1 ký gạo lứt + 1 muỗng cà phê muối hầm). Gạo lứt + nước + muối để vô tô và đặt tô này vào nồi áp suất có nước. Nước trong nồi áp suất cho vừa đủ để khi nấu sôi lên không bị tràn nước vào tô gạo. Bật lửa, chưng cách thủy tô gạo lưt đã có nước, đến khi nghe sôi kêu nồi đợt đầu 15 phút, tắt lửa, để yên đó. Sau 20 phút, bật lửa lên nấu tiếp, nghe sôi kêu nồi đợt hai 5 phút thì tắt lửa. Để 30 phút sau là chín cơm. 
NẤU CƠM GẠO LỨT BẰNG CÁCH CHƯNG CÁCH THỦY TRONG NỒI THƯỜNG: Một chén gạo lứt nấu với hơn một chén nước (1 ký gạo lứt + 1 muỗng cà phê muối hầm). Nếu cơm khô, thêm nước; nếu cơm nhão, bớt nước. Gạo lứt + nước + muối để vô tô và đặt tô này vào nồi có nước. Nước trong nồi cho vừa đủ để khi nấu sôi lên không bị tràn nước vào tô gạo. Bật lửa, chưng cách thủy tô gạo lứt đã có nước, đến khi nghe sôi xì hơi đợt đầu 30 phút, tắt lửa, để yên đó. Sau 15 phút, bật lửa lên nấu tiếp, nghe sôi xì hơi đợt hai 10 phút thì tắt lửa. Để 30 phút sau là chín cơm.
CÁCH GIỮ CƠM GẠO LỨT KHÔNG THIU: Không đậy nắp kín mà dùng rá để đậy nồi cơm. Không được để cơm trong tủ lạnh 

CÁCH HÂM CƠM GẠO LỨT: Khoét một lỗ tròn giữa nồi cơm cho đến đụng đáy nồi, đổ nước vô  (lượng nước đủ tráng đáy nồi để cơm không bị khét khi hâm). Đậy nắp nồi cơm, nấu cho nước bốc hơi lên, mở nắp nồi khuấy đều. Dùng muỗng ép cơm cho bằng mặt và cứng. Đậy nắp nồi, để lửa riu riu khoảng 5
phút, tắt lửa.
CÁCH RANG MÈ: Mè vàng còn vỏ. Đổ mè vô thau nước đầy, đãi vớt lấy mè nổi trên mặt nước và bỏ sạn cát chìm xuống dưới thau. Phơi khô mè sạch đã vớt, đựng trong hộp đậy nắp. Nếu mua mè sạch, không phải đãi nữa. Khi rang mè, nhúng tay cho ướt để bóp sơ mè cho thấm nước mới rang thì mè thơm hơn là rang khô. Rang lửa đều và nhỏ, khuấy đều mè, đến khi nghe mè nổ lách tách, rang thêm một chút nữa là mè chín. Đổ mè chín ra thau, phải đậy kín liền. Mười phút sau, mè nguội, bỏ vô cối nghiền chung với muối hầm. (Nghiền, không phải giã). Một muỗng cà phê muối hầm nghiền với 12 muỗng mè. Phân lượng này thay đổi tùy theo tuổi tác và loại bệnh. Mè trộn muối rồi chỉ được sử dụng 4 ngày. Ăn tiếp, phải rang mè mới.

CÁCH ĂN CƠM GẠO LỨT VỚI MUỐI MÈ
Khi múc cơm ra chén, không được xới cơm đều, chỉ xắn cơm trong nồi từ trên xuống dưới để lấy đủ âm dương. Ăn bao nhiêu thì xắn bấy nhiêu ra chén. Để nguyên phần cơm dư ngày mai, không được xới lên. Một chén cơm trộn đều với 4 muỗng cà phê muối mè đã nghiền. Ăn bằng muỗng cà phê, một lần ăn 1 muỗng cà phê cơm trộn mè, không được nhiều hơn, để nhai nát cơm cho dễ. Phải nhai cho đến khi cơm thành nước và cảm thấy ngọt mới được nuốt và chỉ nuốt một lần, không được nuốt nhiều lần; vì nuốt nhiều lần sẽ bị 
khát nước. Khi ăn không được hở moi, không được nói chuyện. Ăn bất cứ giờ nào, không cần đúng bữa. Trước khi ngủ hai tiếng, không được ăn. Dùng số lượng chén cơm nhiều ít tùy ý, nhưng không nên ăn no một lần, một chén cơm có thể ăn nhiều lần.
CÁCH RANG GẠO LỨT DÙNG ĐỂ ĂN: Nấu cơm gạo lứt chín bình thường. Xới cơm ra mâm phơi khô. Khi phơi cơm, phải trở cơm thường xuyên mới khô đều và cơm rang được dòn. Mỗi ngày phơi cơm, chiều mang vô, mai phơi tiếp, không nên phơi ban đêm ngoài sương. Nhớ đậy cơm phơi bằng vải mỏng để tránh bụi và các con vật nhỏ không bám vào cơm. Dùng chảo cho muối hầm vào (lượng muối hầm = 1/6 so với lượng gạo cần rang) rang muối thật nóng cho đến khi muối bốc hết hơi, lấy gạo đã phơi đổ vô chảo đang nóng rang đều . Rang gạo đến khi hạt gạo vừa vàng và thơm thì tắt lửa và đổ gạo đã rang vào một son sạch, đậy nắp lại. Ủ như vậy cho đến khi gạo nguội hoàn toàn, đổ ra vợt rây, bỏ muối, lấy gạo. Lượng muối còn lại ta lại tiếp tục sử dụng cho các lần rang tiếp theo (có thể dùng lại lượng muối đã sử dụng khoản 4 - 5 lần thì thay muối mới).
- Chú ý: Ở những vùng không có nắng, dùng thiết bị sấy từ 40o- 42o . Nếu răng yếu, có thể xay gạo rang thành bột rồi cho nước nóng vào để ăn; hoặc không xay thành bột thì có thể ăn bằng cách ngậm gạo lứt rang
trong miệng cho mềm, rồi nhai cho đến thành nước, mới được nuốt.
GẠO LỨT RANG DÙNG ĐỂ UỐNG: rang gạo lứt sống đến khi gạo vàng đậm là được, để nguội đựng vô keo, dùng từ từ. NẾU BBÓN: Hai tiếng một lần, nhai 1 muỗng cà phê muối mè rang rồi. Và trước khi ngủ, nhai 4 muỗng cà phê muối mè rang, nhai đến lúc không còn mặn mới được nuốt (khoảng 5 phút).
NƯỚC UỐNG TÙY THEO BÊNH: Bệnh tim mạch, đường ruột, bao tử, vôi cột sống: Dùng lá trà ba năm.
CÁCH PHƠI LÁ TRÀ BA NĂM: nấu nước sôi, cho lá trà tươi vào rồi vớt ra liền (đó là cách rửa trà). Sau đó ủ một đêm, phơi chỗ mát, một ngày xốc lên ba lần (sáng, trưa, chiều), phơi khoảng 1 tuần đến 10
ngày, lá trà khô, cho vô bao, để chỗ không ẩm. Khi dùng, sao khử thổ bằng cách đổ lá trà đã rang thơm xuống nền gạch tàu, rồi hốt lên liền, không được để lâu. Có thể mua 4 miếng gạch tàu, nếu nhà không lót
gạch tàu. Lá trà rang để nguội cho vô bao để dành.
CÁCH NẤU NƯỚC TRÀ
Cách 1: Lấy 10 lá trà khô, rửa sạch bằng nước lạnh, vò nát lá trà, cho vô bình thủy và đổ 3 xị nước sôi vô (3 xị = 0,75 lít) .
Để khoảng 15 phút, trà sẽ ra đủ chất và để nguyên lá như vậy trong bình thủy, khi uống rót nước thôi.
Cách 2: Nấu 10 lá trà đã rửa sạch, nấu sôi 15 phút, đổ nước trà vô bình thủy giữ nóng, bỏ lá trà.
ĐÁNH RĂNG.
Không được dùng kem đánh răng vì có chất hóa học. Đánh răng bằng bột thuốc theo pháp dưỡng sinh. Một ngày chỉ đánh một lần buổi tối. Các lần khác súc miệng bằng nước muối.
***
Phụ chú: ĂN GẠO LỨT MUỐI MÈ THEO SỐ 7: Nghĩa là ngoài gạo lứt muối mè, không được ăn bất cứ thức ăn gì (kể cả rau củ và trái cây cũng không được ăn).

CÁC TRỢ PHƯƠNG THEO PHƯƠNG PHÁP DƯỠNG SINH
1. CÁCH XÔNG ĐAU NHỨC: 1 ký muối hột và một ký củ cải trắng cho vào 4 lít nước nấu sôi. Đổ nước sôi này ra xô, rồi dùng vật cản gác trên mặt nước để chân không đụng vô nước bị phỏng và gác chân lên xông, dùng mền quấn bít kín lại đến ngang rốn. Nước xông nguội thì cho chân vô ngâm 5 phút, rồi ngâm chân vô nước lạnh trong một phút. Xông chân liên tục 2 tuần.
2. CÁCH ÁP NƯỚC GỪNG CHỖ ĐAU VÀ KHỐI U TRONG CƠ THỂ: 200 gram gừng tươi giã nhuyễn cho vào bọc vải mùng. Nấu 2 lít nước sôi cho bọc gừng vô rồi hạ bớt lửa liền và để lửa nhỏ riu riu, không được tắt lửa để giữ nước còn nóng. Nắm góc khăn để nhúng khăn vô nồi nước gừng và vắt khăn ráo. Gấp khăn làm 4 đắp lên chỗ đau với độ nóng chịu được và phủ lên khăn nóng này một khăn khô bên ngoài để giữ nóng. Trong lúc đắp khăn nóng thứ nhất, lo chuẩn bị nhúng khăn thứ hai vô nước gừng nóng và vắt ráo để vô thau. Khăn thứ nhất đã nguội thì lấy khăn ra, rồi đắp khăn nóng thứ hai tiếp theo. Đắp từ 25 đến 30 phút một lần.  Một ngày đắp ba lần, hay ít nhất cũng phải đắp hai lần mới có kết quả. Chú ý lúc đang
cho con bú, không được đắp nước gừng lên vú, vì sẽ bị tắt tia sữa.
3 - CÁCH DÁN CAO KHOAI MÔN (CỦ NHỎ) CHỖ ĐAU VÀO BUỔI TỐI TRƯỚC KHI NGỦ: Khoai sọ củ nhỏ rửa sạch và gọt vỏ. Chín phần khoai sọ đã giã nhuyễn, (hoặc mài nhuyễn, hoặc xay nhuyễn)
trộn cho đều với một phần củ gừng đã gọt vỏ và đã giã nhuyễn. Đổ hỗn hợp này vô miếng vải mùng, bề dày hỗn hợp độ một phân rưỡi. Đắp lên chỗ đau, bó lại để không bị rớt khoai ra và đắp nguyên đêm.
4. VIÊM NHIỄM ÂM HỘ - UNG THƯ TỬ CUNG: 4 cây cải xậy tươi độ 1 ký (cải làm dưa muối) + 4 lít nước + 1 nắm muối. Nấu chín cải, đổ nước ra chậu, cho thêm nước lạnh cho vừa đủ nóng, ngồi vào chậu nước này để ngâm mông và phủ mền lên ngang rún 30 phút. Sau đó tắm cho sạch. Ngâm mông 2 tuần liên tục. Đắp nước gừng và dán cao khoai sọ từ rún trở xuống (Xem số 2 rang 41 và số 3 trang 43). Uống nước lá trinh nữ hoàng cung và lá trà bồ công anh (Xem số 38 trang 66). Mỗi tối lấy bông gòn bằng ngón tay út nhúng vô dầu mè và lăn bột Denti (bột Denti chữa bệnh) rồi nhét vô đường tiểu, sáng đi tiểu ra.
 Nhét như vậy từ 1 tuần đến 10 ngày. Trường hợp bị huyết trắng thì nhét bông gòn tẩm dầu mè và bột Denti giống như vậy trong 5 ngày. Ăn cơm gạo lứt muối mè theo số 7.
5. BỆNH HAY ĐAU BỤNG - NHỨC ĐẦU - TRÚNG GIÓ MÉO MIỆNG TRONG VÒNG 5 PHÚT - PHONG GIỰT - TĂNG HUYẾT ÁP - ỔN ĐỊNH THẦN KINH: 1 muỗng canh bột sắn dây cho một chút xíu nước lạnh (nước nấu chín để nguội), khuấy lên để bột không bị ốc trâu, rồi mới cho 1 bát nước sôi vào, khuấy lên thấy bột trong là chín. Nếu bột chưa trong thì cho vào nồi để lên bếp lửa khuấy
cho chín, rồi cho một muỗng cà phê nước tương Tamari vào khuấy đều. Uống hỗn hợp này lúc bụng đói, hoặc lúc trúng gió, hoặc vào buổi tối và trùm mền cho đổ mồ hôi. Sau đó, lau khô người và thay quần áo. Không được ra gió trước một tiếng đồng hồ.
6. ĂN KHÔNG TIÊU: dầm 1 miếng chanh muối lâu năm với nước nóng để uống, hoặc ngậm 1 miếng nhỏ chanh muối (chanh muối lâu năm ), ngậm một lúc rồi nuốt. 
7. CẢM: 15 lá trà 3 năm + nửa trái chanh muối lâu năm (trái nhỏ, trái lớn thì một phần ba) + 1 lóng gừng bằng ngón chân cái nướng cho chín rồi băm nhuyễn. Ba thứ này nấu với một chén rưỡi nước cho sôi, sắc lại còn 1 chén, vớt bỏ lá trà, rồi chế nước này vào chén có 1 muỗng canh bột sắn dây đã được tán ra vơi 1 muỗng canh nước khuấy lên, nếu bột trong là chín, bột chưa trong thì bắc lên bếp khuấy sơ thêm cho chín bột. Sau đó, cho vào một muỗng nước tương Tamari và khuấy đều. Ăn nóng rồi trùm mền cho ra mồ hôi, không ra gió trước 1 tiếng đồng hồ.
8. ĐAU CỔ HỌNG - VIÊM HỌNG HẠT VÀ VIÊM NHIỄM THANH QUẢN, THỰC QUẢN: Tối trước khi ngủ, đánh răng bằng bột Denti, sau đó ngậm 1 phần 4 muỗng cà phê bột Denti (loại ngậm, không phải loại đánh răng), ngửa cổ để khò khò cho nước bột này thấm vô cổ họng, rồi ngậm đến khi hết mặn nuốt luôn, đi ngủ không được uống nước, vì sẽ làm trôi thuốc.
9. ĐÀM TRONG CỔ - MỆT ĐỨT HƠI:
Để trị đàm, buổi tối, trước khi đi ngủ, ngậm 1 phần 8 trái chanh muối, nuốt từ từ đến hết chanh muối rồi ngủ, không được uống nước vì sẽ làm trôi thuốc. (chanh này đã ngâm muối 3 năm). Ăn gạo lứt muối mè theo số 7 trong 1 tháng. Răng yếu, có thể xay cơm gạo lứt rồi trộn muối mè. Xay bằng cối xay thịt của Liên Sô. Chú ý, cũng phải nhai cơm cho nát thành nước và cảm thấy vị ngọt mới được nuốt.
10. BỆNH NHỨC ĐẦU KINH KHỦNG: 1 lon nếp nấu chín trộn với hành hương sống đã thái nhỏ, túm vào khăn, đắp lên đầu. Vừa cảm thấy nóng chịu không nổi thì lấy ra, rồi lại đắp vào, liên tục đắp như vậy cả vùng đầu và thái dương, cho đến khi nếp nguội. Một ngày đắp 1 lần.
11. THÚ ĐỘC CẮN: dùng dây cột phần trên chỗ bị cắn để nọc độc không theo máu chảy về tim, sau đó lấy bông gòn nhúng vô nước tương Tamari đắp lên chỗ bị cắn. Và lấy hai lòng đỏ trứng gà có trống khấy đều với hai muỗng canh nước tương Tamari và uống. 
12. SƠ GAN - VIÊM GAN B, C: Ăn gạo lứt muối mè theo số 7. Uống nước thân cây và lá của cây lá gai. Lá gai tốt nhất là lấy cây lá gai từ tháng giêng đến tháng hai. Lấy 100 gram lá gai và cả thân cây + 30 gram cây chó đẻ + 50 gram cây cỏ mần chầu + 50gram cây ô rô, tất cả sao vàng khử thổ và rửa sạch nấu với ba chén nước, nấu sắc còn lại 8 phân. Uống chén nước lá gai đầu tiên này trước 6 giờ sáng. Sau đó, đổ một lít nước vô nấu sắc lại còn nửa lít để uống suốt ngày. Nếu bị bệnh ung thư gan thì thêm vào 10 gram bồ công anh và 100 gram hoàng ngọc (2 thứ này cũng sao vàng khử thổ).
13. GIỜI ĂN ( DÔ NA): Cách 1: 20 lá trà ba năm nấu với 2 chén nước, sắc lại còn 1 chén, để rửa vết thương. Cách 2: dùng dấm nuôi thoa lên vết thương. Ăn gạo lứt muối mè theo số 7. Uống nước gạo lứt rang.
14. HO (do cảm, hoặc dùng bổ phổi): nấu 30 lát củ sen và 4 lát gừng với một lít nước, còn ba xị để uống suốt ngày. Hoặc để 30 lát củ sen và 4 lát gừng hãm với 3 xị nước sôi đựng trong bình thủy, cho củ sen và gừng mềm rồi uống. Không được uống nước gì khác, không ăn trái cây.
15. LỞ LOÉT: Nước cốt nghệ + muối + phèn chua giã nhỏ, ba thứ này phân lượng bằng nhau. Tất cả trộn chung rồi hấp cách thủy, khoảng 15 phút. Bôi nước này lên chỗ lở loét là khô liền.
16. BỆNH CHÀM GHẺ LỞ PHÁT SINH TỪ MÁU DƠ: phải ăn cơm lứt mè theo số 7 cho đường ruột tốt, dẫn đến máu tốt, mới hết bệnh. Xức dầu mè lên vết chàm, rồi thoa bột Denti lên .
17. ĐAU THẮT NGANG LƯNG: 1 khúc xương rồng ba khía (thân láng) dài 3 tấc, xắt mỏng.1 ký muối hột rang cho hết nổ. Giường lót giấy báo và lá chuối chồng lên lớp giấy báo vì rất nóng, đổ muối đã rang lên lá chuối, sau cùng xếp lớp xương rồng xắt mỏng phủ lên lớp muối. Lấy khăn lông phủ lên xương rồng, rồi nằm vùng đau lên khăn lông đã phủ xương rồng .
18. CƯỜM MẮT , ĐỎ MẮT, MẮT KÉO MÂY: nhỏ dầu mè lâu năm, mỗi lần 2 giọt, một ngày 3 lần.
19. MỆT VÌ LÀM VIỆC QUÁ SỨC - MỆT VÌ MẤT NƯỚC - KHÓ THỞ VÌ HÍT NHIỀU KHÓI XE - TÉ BẦM: Uống một ly nước trà lá ba năm hòa với một muỗng cà phê nước tương Tamari. Chú ý là cho nước tương Tamari vào ly trước, rồi mới đổ nước trà lên nước tương và khuấy đều. Nước này có tác dụng khai thông máu, làm tan máu bầm và có tác dụng như nước biển truyền cho người bị mất nước.
20. VIÊM XOANG MŨI: 1 nắm trầu Lương nấu với 1 lít nước. Khi nước sôi, đổ vào 1 chung rượu đế trắng. Trùm khăn xông mũi. Cỏ lông heo hay cỏ hôi, lá có 3 màu: xanh, trắng, vàng, bông màu vàng. Lấy bông của cỏ giã chung với một chút muối, chế thêm một ít nước. Nhỏ 2 giọt nước này vào một bên mũi, thở cho thông xong, nhỏ tiếp 2 giọt vào lỗ mũi kia. Đừng nhỏ một lúc hai lỗ mũi, sẽ bị nghẹt thở. Nếu không muốn chữa theo cách xông như trên, thì ăn cơm gạo lứt với muối mè theo số 7 và đắp nước gừng ở phần mũi đến trán, cũng hết bệnh. (Xem cách đắp nước gừng ở trang 39, số 2).
21. ĐAU NHỨC VÌ SANH ĐẺ ĐI NHIỀU:
Ăn gạo lứt rang để hút ẩm và xông theo cách chỉ ở trang 39, số 1.
22. NHỨC ĐẦU KHI ĐANG ĂN SỐ 7: Ăn bột sắn theo cách chỉ ở trang 43. Nhức đầu nhiều, áp nước gừng theo cách chỉ trang 39, số 2.
23. BỆNH ÓI VÌ SAY XE: Dán 1 trái mơ muối lên rốn. Ngậm 1 trái mơ muối trước khi lên xe (mơ đã muối 3 năm).
24. NƯỚC UỐNG TĂNG CƯỜNG SINH LỰC: 2 củ nhỏ lão sơn sâm + 10 lá trà 3 năm + 10 gram câu kỉ + nửa xị nước (= 1 phần 8 của 1 lít); tất cả chưng sôi trong 30 phút, rồi chắt nước này ra chén. Sau đó, cho nửa xị nước vào hỗn hợp này để chưng tiếp lần thứ 2, cũng sôi trong 30 phút là được và chắt nước 2 ra chén. Uống trong ngày lúc nào cũng được.
25. BỔ PHỔI - BỆNH LAO - HO RA MÁU VÀ BỒI BỔ SỨC KHỎE CHO NGƯỜI KIỆT SỨC: 1 củ sen + 1 củ cà rốt bằng với củ sen + một phần tư củ cải trắng (nhiều củ cải trắng sẽ bị đau thận) + 1 lóng ngưu báng độ 5 phân + vài lát gừng. Tất cả những thứ này xay hay ép được khoảng một chén nước. Một muỗng canh bột sắn dây và một muỗng nước khuấy cho tan để bột khỏi bị ốc trâu. Sau đó, trộn ly nước hỗn hợp đã xay với bột sắn dây đã hòa tan nước, trộn đều rồi đặt lên bếp khuấy cho chín bột, cho vào 1 muỗng cà phê nước tương Tamari khuấy tiếp cho đều. Ăn nóng rồi trùm mền liền cho ra mồ hôi. Dùng liên tục 10 ngày để bổ phổi. Nếu bị ho lao hoặc ho ra máu, dùng liên tục trong một tháng rưỡi.
26. SƯNG NƯỚU RĂNG (đang ăn dưỡng sinh): 1 muỗng canh bột sắn dây khuấy với nửa chén nước cho tan, nấu chín xong, cho  vào 1 muỗng cà phê nước tương Tamari khuấy tan. Ăn nóng. Đồng thời xức bột Denti lên nướu răng.
27. BỆNH VIÊM RUỘT ĐI CHẢY  THƯỜNG XUYÊN: 1 nắm tay trà dây (ở Cao  Bằng) (tương đương 1 muỗng canh), đổ nước sôi vào trà, chắt bỏ nước đầu, sau đó đổ một phần tư xị nước sôi vào rồi ngâm cho ra trà, uống hết một phần tư xị nước trà này lúc bụng đói buổi sáng. Sau đó, đổ nửa lít nước sôi vào xác trà này để vào bình thủy, uống nóng suốt ngày. Ăn cơm gạo lứt mè theo số 7.
28. SA RUỘT - SA TỬ CUNG: Cuống bí rợ chẻ làm 4 phơi kho, sao vàng, khử thổ. Nấu 10 cuống bí khô với 2 lít nước, nấu còn 3 xị uống mỗi ngày.
29. TÁI TẠO MEN RUỘT - LAO RUỘT:
đau ruột do uống trụ sinh nhiều, khuấy bột sắn dây để ăn trước khi ngủ theo cách chỉ ở trang 43. Nếu ăn bột sắn dây theo cách như vậy, nhưng khuấy bột còn đục (chưa chín) thì chữa bệnh lao ruột.
30. BỆNH SỎI THẬN: Chọn chuối hột thật thì có nhiều hột dày đặc và chuối có vị ngọt. Ép 4 ký chuối hột và phơi khô, rồi nướng cho cháy khét, sau đó xay thành bột. Đưa bột này cho Thầy làm thuốc uống. Nếu sạn nhỏ, ăn gạo lứt mè theo số 7, uống trà đậu đỏ, ba nắm đậu đỏ nấu với nửa lít nước. Đau đỏ luộc sơ bỏ nước đầu, rồi rang đậu cho vàng đậm để vô lọ đựng uống dần. Đắp nước gừng ban ngày, dán cao khoai sọ ban đêm ở vùng thận (xem trang 39, số 2 và 41).
31. BỆNH TIỂU ĐƯỜNG: Ăn cơm gạo lứt mè theo số 7 và uống trà đậu đỏ rang. Đậu đỏ nấu sôi rồi bỏ nước, lấy đậu rang cho vàng đậm, để nguội đựng trong hủ. Cân lượng đậu đỏ và nước, tùy theo thầy định.
32. BỆNH TIM - TẮT NGHẼN ĐỘNG MẠCH - ĐAU THẦN KINH TỌA: Một ngày ăn cơm gạo lứt với muối mè, cộng thêm bốn muỗng cà phê nước tương tỏi, ăn luôn cả tỏi, kèm với một món ăn tùy ý(trừ thịt) và chỉ một món ăn trong một bữa ăn thôi. Ăn lượng cơm tùy ý. Nước uống: lá trà ba năm.
33. TRĨ: rang hạt gấc rồi xay nhuyễn pha vào dấm tây cho sền sệt, dùng lông ngỗng chấm vào để xức.
Ăn gạo lứt mè theo số 7. Nếu bón, ăn thêm một trong ba cách sau đây:
Cách 1: 1 lon gạo + 1 nắm đậu đỏ + 10 gram phổ tai, tất cả nấu chung thành cơm. (Đậu đỏ luộc sơ, bỏ nước, rồi mới nấu với cơm).
Cách 2: ăn thêm 200 gram bí đỏ. 
Cách 3: ăn canh rong biển nấu với rau xà lách son, hoặc rau má, rau bồ ngót, v.v...
34. LOÃNG XƯƠNG, PHONG THẤP, THẤP KHỚP, THẤP ĐA KHỚP, THOÁI HÓA CỘT SỐNG, V.V... (BỆNH LIÊN QUAN ĐẾN XƯƠNG): Ăn gạo lứt muối mè theo số 7 buổi sáng và trưa. Chiều ăn gạo lứt rang với mè rang không có muối thay cơm (số lượng tùy thích). Uống nước gạo lứt rang. Cách rang gạo lứt dùng để ăn, xem trang 33. Cách rang gạo lứt dùng để uống, xem trang 35.
35. BỆNH LẠNH NHỨC XƯƠNG Ở NÚI:
1 lon nếp nấu với 4 hạt bạch quả (Bạch quả đập bỏ vỏ, lấy hột). Ăn xôi này sẽ thấy ấm, không bị nhức xương. Ngoài ra, giã tiêu sọ cho dập để ở gang bàn chân rồi mang vớ vào cũng có tác dụng chống lạnh.
36. TEKKA - THỨC ĂN BỔ DƯỠNG:
2kg ngưu báng + 2kg củ sen + 3kg cà rốt + 1kg củ cải trắng + 2kg tương miso + 2 lít dầu mè + 300gr gừng. Những củ trên để nguyên vỏ, rửa sạch, ngâm nước muối 10 phút. Vớt ra để cho ráo, cắt mỏng mỗi thứ riêng từng nhóm, xay sinh tố cho nhuyễn mỗi thứ. Sau đó, trộn chung cho vào chảo để lên bếp, nhớ để lửa nhỏ. Khuấy đều tay khoảng 6 tiếng đồng hồ cho khô hỗn hợp này. Sau đó cho tương miso và dầu mè vào khuấy đều và tan ra. Khi thấy vừa sôi lụp bụp thì tắt lửa (Phải chú ý công đoạn này, vì nếu không sẽ bị đắng). Đậy nắp nồi, sau khi thật nguội mới đựng vào keo nhỏ ép cho thật chặt để dầu nổi lên mặt khoảng 2 phân thì mới để lâu được.
37. CHÁO BỔ DƯỠNG: nửa lon gạo + 1 nắm đậu đỏ ( đã nấu sôi sơ, bỏ nước) + 30 hạt sen + 10 gram phổ tai + 100 gram bí đỏ + một chút muối cho vừa ăn. Nếu đi phân nhão thì bớt một nửa bí đỏ . Tất cả nấu thành cháo dùng thay sữa cho trẻ em và người lớn tuổi. Ăn cháo này với Tekka.
38. CHỮA UNG THƯ: Uống nước lá trinh nữ hoàng cung chưng cách thủy và lá trà bồ công anh và ăn cơm gạo lứt muối mè theo số 7
* CHƯNG CÁCH THỦY LÁ TRINH NHOÀNG CUNG: 1 lá tươi trinh nữ hoàng cung không được cắt bằng dao hay kim loại, phải dùng tay xé lá để vô chén sạch và không đổ nước vô chén. Đổ nước vào nồi có nắp đậy bằng thủy tinh, rồi để chén có lá trinh nữ hoàng cung vào nồi nước này để chưng cách thủy. Cho lượng nước trong nồi vừa đủ để nước sôi không tràn vô chén. Chưng cách thủy sau khi nước sôi độ 5 phút là được. Sau đó, tắt lửa, để yên 5 phút sau mới được mở nắp nồi. Chú ý mở nắp thủy tinh cho khéo để đừng bị đổ mất nước mồ hôi trên nắp nồi và nghiêng nắp nồi cho nước mồ hôi đọng trên nắp chảy vào chén có lá trinh nữa hoàng cung. Đậy nắp nồi lại và tiếp tục chưng cách thủy chén lá này lần thứ 2, cũng chưng sau khi nước sôi 5 phút là được. Tắt lửa, để yên 5 phút sau mới được mở nắp nồi. Cũng như lần 1, mở nắp thủy tinh có đọng mồ hôi nước và nghiêng nắp cho nước mồ hôi chảy vào chén có lá trinh nữ hoàng cung. Tiếp tục bật lửa lên để chưng chén lá này lần thứ 3, cũng chưng như 2 lần trước. Sau khi nước sôi độ 5 phút thì tắt lửa và để yên 5 phút sau mới được mở nắp nồi. Nghiêng nắp cho nước mồ hôi chảy vào chén lá trinh nữ hoàng cung lần thứ 3. Cho lá trinh nữ hoàng cung đã chưng cách thủy 3 lần vào một cái khăn nhỏ, rồi vắt lấy nước cốt lá này, được chừng 2 muỗng cà phê. Uống nước cốt lá này sau bữa ăn chừng 30 phút ( bữa ăn nào cũng được ), không được uống lúc bụng đói. Một ngày chỉ được uống 1 lá trinh nữ hoàng cung chưng cách thủy như trên, không được uống nhiều hơn 1 lá.
* NẤU TBCÔNG ANH: 5 gram lá bồ công anh nấu với 1 lít rưỡi nước, sắc lại còn 3 xị (= 0,75lít) uống trong ngày. Mua trà bồ công anh ở số 227/9 Nguyễn Đình Chính, Q. Phú Nhuận. Điện thoại: 8.476.808 - 0982. 281.232, hoặc ở 357 Kinh Dương Vương, P. An Lạc, Q. Bình Tân, ĐT: 0937.540.615.
39. XỔ CHẤT ĐỘC: 1 củ cải trắng (tươi) 100 
gram ép lấy nước cốt (không cho thêm nước). Uống nước cốt này vào buổi sáng sớm, chưa ăn gì. Cách xổ này dành cho người ăn mặn bắt đầu ăn theo phương pháp dưỡng sinh (Người ăn chay trường không cần xổ theo cách này). Uống nước cốt này trong vòng một tuần. Nếu người lớn tuổi chỉ uống 4 hay 5 ngày thôi.
40. TAN MÁU BẦM TRONG NÃO VÀ BỊ ĐỘNG KINH: Thuốc bắc: Hoàng Liên, Hoàng Cầm, Đại Hoàng, mỗi thứ 1 gram nấu với 3 chén nước , sắc lại còn 8 phân, để nguội uống buổi sáng. Nấu nước nhì, 2 chén nước còn 6 phân, để nguội, uống buổi chiều.
41. LOÉT BAO TỬ
1 muỗng canh dầu mè + một phần tư muỗng cà phê bột DENTI hòa chung uống một lần trong khoảng từ 7 giờ đến 9 giờ sáng. 1 muỗng canh trà dây đổ vô bình thủy có 3 xị nước sôi (=0,75 lít) để cho ra trà uống suốt ngày. Buổi sáng ăn cháo gạo lứt với muối mè. Buổi trưa và chiều ăn cơm gạo lứt muối mè theo số 7.
42. CÁCH LỌC GAN
- Nếu bị bệnh gan siêu vi B, C, hay sơ gan: lấy 10 gram PHAN TẢ DIỆP
- Nếu bị khối u gan: lấy 12 gram PHAN TẢ DIỆP Nấu lá này lần đầu với 3 chén nước, sắc còn 8 phân, uống trước 6 giờ sáng. Nấu lá này lần thứ nhì với 2 chén nước, sắc còn 6 phân, uống buổi chiều.
- Đối với bệnh gan siêu vi B, C, hay sơ gan: uống liên tục lá thuốc này khoảng 10 ngày. Ngoài ra, uống thêm một xị rưỡi ( = 0,375 lít) nước lá trà 3 năm.
- Đối với bệnh ung thư gan: phải uống lá thuốc này liên tục 10 ngày. Ngoài ra, uống thêm một xị rưỡi ( = 0,375 lít) nước lá trà 3 năm. Khi uống lá thuốc này, sẽ đi xổ liên tục mỗi ngày từ phân đen sang phân xanh, đến khi đi phân vàng thì không uống lá thuốc này nữa, vì gan đã được lọc sạch. Nếu thấy sức khỏe yếu thì ngưng không dùng lá thuốc này nữa. Nếu sức khỏe tốt thì uống tiếp để xổ cho đến khi đi phân vàng thì ngưng. Sau khi gan đã sạch, chưng cách thủy 2 củ nhỏ lão sơn sâm đã giã nát + 10 lá trà 3 năm + 5 gram hạt câu kỉ + nửa xị nước, chưng trong 30 phút. Sau đó, chắt nước này ra chén. Rồi chế thêm nửa xị nước vào hỗn hợp này cũng chưng trong 30 phút là được. Uống nước này ban ngày để tăng cường sức khỏe, trong 10 ngày. Ngoài ra, uống thêm 2 xị nước (= nửa lít nước) lá trà 3 năm trong ngày. Sau khi xổ xong và trước khi ăn lại theo pháp dưỡng sinh số 7 và uống 3 xị (= 0,75 lít) nước lá trà 3 năm. Ngoài ra, cần uống nước bột sắn dây khuấy với nước tương Tamari để cải thiện đường ruột do quá trình đi tiêu chảy khi lọc gan, buổi tối trước khi đi ngủ, uống nước bột sắn dây khuấy với nước tương Tamari. Lấy một muỗng canh bột sắn dây khuấy với chút nước chín cho bột khỏi bị ốc trâu, rồi đổ bột này vào son nước đang sôi có khoảng một chén nước (chén ăn cơm), khuấy đều cho chín bột, bột trong là chín. Sau đó cho  vào 1 muỗng cà phê nước tương Tamari, khuấy đều lên. Ăn nóng rồi trùm mền kín cho ra mồ hôi. Sau đó, lau khô người và thay quần áo. Một tiếng đồng hồ sau mới được tiếp xúc với gió. Nếu muốn kiểm tra xem gan đã tốt chưa, sau 3 tuần kể từ ngày đi phân vàng, có thể đi xét nghiệm gan.
43. BƯỚU CỔ: 1 nắm lá bùm xụm giã vắt lấy nửa chén nước cốt, uống nước cốt này vào buổi sáng sau khi ăn sáng. Còn xác lá xào với 1 muỗng canh dấm, xào cho nóng, rồi bó xác lá này vô cổ, bó 2 tiếng. Một ngày bó 1 lần. Bó trong 10 ngày. Ngoài ra, hơ nóng 1 trái đu đủ non bằng cườm chân, rồi lăn lên cổ, khi trái đu đủ hết nóng thì hơ cho trái nóng lại rồi lăn tiếp lên cổ. Lăn như vậy từ 7 đến 9 lần trong một đợt. Một ngày lăn 3 đợt. Lăn như vậy trong 2 tuần. Ăn gạo lứt mè theo số 7. Lấy 15 lá trà để vào bình thủy 3 xị nước sôi cho ra trà, uống cả ngày.
44. MẮT MỜ - MẮT CẬN THỊ - MẮT VIỄN THỊ - MẮT LOẠN THỊ - CÁC BỆNH VỀ MẮT: 3 chỉ phục linh + 3 chỉ bạch truật + 2 chỉ quế + 2 chỉ cam thảo, tất cả nấu với 3 chén nước sắc còn 8 phân. Nước thứ nhì, nấu với 2 chén nước sắc còn 6 phân. Uống liên tục 10 ngày, 10 thang thuốc này rồi ngưng. Nếu chưa hết bệnh thì nghỉ 10 ngày rồi uống lại 10 ngày như vậy. Nấu cơm gạo lứt với 5 hạt gấc và ăn cơm gất này với muối mè theo số 7.
45. DÙNG NƯỚC MƠ MUỐI LÂU NĂM ĐỂ NẤU CANH CHUA RẤT TỐT, không nên nêm canh với muối nữa vì mơ đã mặn, không nên dùng me.
46. KHÔNG NGHIỀN MÈ HOẶC CHẾ BIẾN THỨC ĂN GẦN NGƯỜI BỆNH, vì sẽ bị hút âm vào thức ăn, làm giảm tác dụng tốt của thức ăn.
47. KHI ĐI DU LỊCH (đang ăn dưỡng sinh), nên đem gạo rang chế nước sôi vào cho thành cơm, hoặc cháo để ăn với mè nguyên hột, không trộn muối. Ăn gạo rang hay cháo gạo rang phải kèm với mè để không bị bón. Nếu không có gạo rang có thể ăn cơm trắng với rau chấm muối (nếu không có tương Tamari).

ĂN THEO PP OHSAWA ĐỂ PHÒNG BỆNH,TRỊ BỆNH VÀ PHÁT TRIỂN TRÍ TUỆ

Tất cả mọi sinh vật đều phải ăn để tồn tại. Chúa Jesus, Phật Thích Ca, Lão Tử ,…cũng phải ăn…Nhưng ăn thế nào cho đúng?Ăn làm sao để được hạnh phúc? Ăn cách nào để phòng bệnh, trị bệnh và phát triển trí tuệ?
Phật giáo dạy ăn chay, không ăn thịt súc vật vì theo thuyết luân hồi nghiệp báo, con vật có thể do 1 người nào làm ác đầu thai mà thành hơn nữa Phật giáo cấm sát sinh, nên Phật tử phải ăn chay. Ấn Độ giáo cũng dạy ăn chay và tuyệt đối không được ăn thịt bò vì bò là con vật linh thiêng. Thiên Chúa giáo dạy cầu nguyện và nhịn đói. Hồi giáo cấm ăn thịt heo vì đó là con vật dơ bẩn.
Trong quyển “Thức ăn quyết định số phận” ,Namboku dạy phải ăn ít vì đó là bí quyết của sức khỏe, giàu sang và cải lão hoàn đồng.
Đến thế kỉ 20, ngài Ohsawa trình bày cách ăn uống quân bình âm dương dựa vào VSNL( Vô Song Nguyên Lý- 1929) và cấu tạo vũ trụ (1955)
Theo ngài Ohsawa, vũ trụ do Thượng Đế (Thái Cực, Hư Không, Vô Tánh…)tạo thành .Thượng Đế sinh ra âm dương (âm có tính bành trướng, dương có tính co rút) .Âm dương sinh ra năng lượng. Năng lượng sinh ra tiền nguyên tử ( proton, electron, nơtron…). Tiền nguyên tử sinh ra nguyên tố. Nguyên tố sinh ra thực vật. Cuối cùng thực vật sinh ra động vật. Con người là động vật có trí khôn được tạo thành sau cùng.
Con người sống trong vũ trụ, ăn uống đúng quân bình âm dương ,con người sẽ có được hạnh phúc, chiến thắng bệnh tật, phát triển trí tuệ…và đạt tới mục đích cuối cùng là giác ngộ, giải thoát…
Khoa học hiện đại đi theo con đường vật chất, dựa vào phân tích và thực nghiệm đưa ra PPDS hiệu quả rất thấp, không giải quyết được khổ nạn về thể xác và tinh thần.
Còn các tôn giáo hiện nay thì quá chú trọng sửa chữa tinh thần, coi nhẹ việc ăn uống sao cho phù hợp trật tự vũ trụ nên cũng lâm vào cảnh bế tắc bằng chứng là các tín đồ cũng không thoát khỏi cảnh bệnh tật triền miên…
Chỉ cố sửa chữa tinh thần là vô ích nếu dòng máu nuôi dưỡng thân xác vẫn còn nhiễm độc vì hóa chất độc hại, vì thực phẩm quá dương hay quá âm…
Muốn đạt được “tâm vô sở trụ”, “nhất tâm bất loạn”, “6 căn không dính mắc 6 trần”, “vô ngã thật sự”, “trí huệ bát nhã”,…điều kiện cần và đủ là hành giả phải có dòng máu trong sạch, tinh khiết mà dòng máu đỏ thắm tốt tươi nầy chỉ có được nhờ thực hành PP Ohsawa độc nhất vô nhị trong đời sống hàng ngày.
Các yếu tố sinh vật học, sinh lý học, luận lý học và tâm lý học phải được kết hợp trên nền tảng VSNL tạo nên PPDS Ohsawa giúp con người đạt được sức khỏe và hạnh phúc thật sự
TPHCM, 5/2/2009

TƯƠNG TỎI LÂU NĂM
Thành phần: Tỏi tươi & tương Tamari lâu năm (ngâm ủ 3 năm trở lên).
Công dụng: Giảm cảm cúm, nhức đầu, chóng mặt, ói mửa, khó tiêu, sơ vữa động mạch, tim, lao, tê bại, lưu thông máu huyết, làm tan máu cục, tăng sức đề kháng, tăng thể lực và an thần, chống ung thư,….
Cách dùng: được dùng như món gia vị, có thể làn nước chấm, uống với trà bancha nóng (lúc cần thiết) hoặc ướp nêm nếm, chiên xào thức ăn,…
Chú ý: Muốn biết Tương tỏi chất lượng, Bạn chỉ cần nhìn tép tỏi đã chuyển qua màu đen là đạt chất lượng tốt.

Bột Sắn Dây

Loại tinh bột này lợi ích cho các bệnh: đường ruột, thương hàn, chậm tiêu, kiết tả, lao nhiệt, mất ngủ, giải độc, say rượu, …
Trẻ em, người lớn đều dùng tốt.
Nếu giải nhiệt cho cơ thể, lúc trời nóng bức – nhất là vận động ngoài trời nóng hoặc các vận động viên thể thao: Quậy bột với nước sôi để nguội, đem lại sức khỏe dẻo dai.
Sắn dây là loại bột trắng như phấn, thu hoạch từ cây sắn dây leo, được trồng ở những vùng đồi núi hoang. Rễ cây sắn dây được thu hoạch vào cuối đông, khi chất lượng bột cao nhất. Sau đó, rễ sắn dây được xát thành bột. Sau khi lọc những mảnh xơ và làm cho cạn khô, lớp bột lắng lại được xắn thành các khoanh không đều nhau, rồi được hoà tan vào nước lạnh. Khi đun sôi, ta có bột sắn dây quánh lại mờ đục, đun tiếp bột trở nên đặc dần và trong mờ.
Bột sắn đun chín có thể chữa đau bụng và loét dạ dày viêm ruột kết, kể cả bệnh kinh niên. Hỗn hợp bột sắn dây – ô mai – gừng – tương chữa các bệnh nhiễm khuẩn và virut, nó giúp phòng chống bệnh rối loạn đường ruột, dạ dày và nhiễm trùng máu. Vì những rối loạn có thể dẫn đến thối ruột hay phá hoại phát sinh bệnh ở các cơ quan vi mô, giá trị của ô mai và hỗn hợp bột sắn – ô mai – gừng – tương không thể thiếu.
Ảnh hưởng của chúng trong việc giúp đỡ cơ thể khắc phục sự rối loạn từng đợt làm cho những loại bệnh này là một phần quan trọng của chương trình tự chăm sóc bảo vệ sức khoẻ.
Bột sắn dây là loại thức uống dân dã và quen thuộc có tác dụng giải nhiệt rất tốt trong mùa hè. Đây còn là vị thuốc chữa cảm nắng, sốt cao rất công hiệu. .
Về thành phần dinh dưỡng, trong 100g bột sắn dây có 14g nước, 0,7g protit, 84,3g gluxit, 0,8g xenlucoza, 18mg canxi, 20mg photpho, 1,5mg sắt… Vì vậy, mùa hè sau những giờ lao động mệt nhọc hoặc đi ngoài nắng về, được uống một cốc nước bột sắn ta thấy mát, dễ chịu, người đỡ mệt hẳn.
Ngoài giá trị dinh dưỡng, sắn dây còn là một vị thuốc giải nhiệt, giải khát tốt vẫn được Đông y dùng chữa các chứng cảm nắng, cảm nóng, sốt cao, khát nước… từ lâu đời.

 Công dụng của nước Mơ muối lâu năm.

Công dụng: Trị đầy bụng, ăn không tiêu, mệt mỏi, chán ăn, giải ngộ độc thức ăn, trị rối loạn dịch vị dạ dày, trung hòa các yếu tố âm trong người, giúp gan loại sạch các hóa chất nhân tạo ra ngoài cơ thể, chống lão hóa cơ thể, tăng sức sống,…
Cách dùng: cho vào nấu với cơm lứt, pha với trà bancha,….và những thức ăn cần thêm gia vị chua.
Nếu bạn thấy khó chịu trong người, hay ngậm một quả mơ muối lâu năm, bạn sẽ thấy ngay tác dụng kỳ diệu của nó.
Nhất là những lúc đi tầu đi xe mà nôn nao có quả mơ muối lâu năm mà ngậm càng thấy sự kỳ diệu của thứ quả kỳ lạ này…
Thành phần: Trái Mơ tự nhiên, muối hầm thiên nhiên không thuốc hóa học.
Công dụng:
Mơ muối lâu năm được mệnh danh là VUA của các thức ăn tạo kiềm trong máu. Đặc trị các bệnh :
+ Về ruột và tiêu hoá, những chứng bệnh đầy bụng, ăn không tiêu.
+ Các chứng bệnh mệt mỏi trong người, chán ăn, chữa ho, trừ đờm, hen xuyễn, khó thở, say xe.
+ Giải ngộ độc thức ăn, trị đau thắt tim, rối loạn vị dạ dày (quá nhiều hoặc quá ít), trung hoà các yếu tố âm trong người. Giúp gan loại sạch hoá chất nhân tạo ra ngoài cơ thể.
+ Chống lão hoá giúp cơ thể trẻ lại và tăng sức sống.
               _ Có thể ngậm trực tiếp trong miệng hoặc chế biến khác như dầm nát pha nước uống hoặc bỏ vào nấu xúp, nấu canh….
Tìm đọc ” Y học thường thức trong gia đình” để biết thêm chi tiết.
_ Phương thức thanh toán tiền: Giao hàng và giao tiền cùng lúc
 

CHANH MUỐI


Thành phần: Chanh ngâm muối 3 năm
Công dụng: Lợi ích cho bệnh viêm họng, ho đàm, bệnh đường ruột, ăn không tiêu.
Cách dùng: Pha làm nước uống hoặc ngậm.
Liều dùng: Mỗi ngày từ 3gr-5gr
Nước chanh tươi có tính acid, nhưng khi vào cơ thể lại tạo phản ứng kiềm cao trong quá trình tiêu hóa. Vì vậy, nước chanh được các đạo sĩ Yoga dùng làm thuốc chữa bệnh rất tốt.
Hơn nữa, chanh lại được ngâm vào trong muối lâu năm (3 năm) nên lại càng hỗ trợ hơn trong việc trị các bệnh viêm họng, bệnh đường ruột,…giúp đào thải các chất độc, chất cặn bã trong cơ thể, sát trùng,…
Trẻ em, người già khi bị viêm họng, ăn không tiêu,….lấy 1/3 trái chanh muối dằm với nước âm nóng (hoặc ngậm) cho uống sẽ chữa được những căn bệnh này.

 HẠT KÊ và Công dụng của hạt Kê

 

 Một chén chè kê vào những ngày mùa hè có thể giúp bạn giải nhiệt. Nghiên cứu của các nhà khoa học tại Viện Dinh dưỡng Ấn Độ cho thấy, hạt kê còn có tác dụng lợi tiểu, ngừa sỏi thận, tiêu chảy và tiểu đường.Riêng những ai hay bị đau bao tử, mắc chứng khó tiêu dùng hạt kê trong chế độ ăn hằng ngày cũng sẽ có lợi. Kê còn giúp làm sạch miệng, chống hôi miệng do có công dụng làm chậm quá trình sinh sôi nảy nở của các loại vi khuẩn trong miệng. Hạt kê do giàu axit amin và silic nên giúp các thai phụ ngừa sẩy thai và tình trạng nôn ọe mỗi sáng. Kê còn có tác dụng chống các loại nấm trên cơ thể.
Bộ phận dùng: Hạt và mầm hạt (Cốc nha hay Túc nha) - Semen Setariae et Fructus Setariae Germinatus.
Nơi sống và thu hái: Gốc ở Ấn độ, được trồng nhiều để lấy hạt làm lương thực và làm thức ăn gia súc. Cây mọc nhanh, có thể mọc trên các loại đất cát vùng đồng bằng và cả ở trên các vùng núi.
Thành phần hoá học: Sau khi sấy vỏ, hạt chứa 73% hydrat carbon, 10,8% protein và 2,9% lipid. Các acid amin từ protein được giải phóng do sự lên men thấp hơn ở sữa và Lúa mì.
Tính vị, tác dụng: Kê có vị ngọt, tính bình, có tác dụng bổ thận. Ở Ấn độ, được xem như lợi tiểu và thu liễm. Cốc nha có vị ngọt, tính ấm, có tác dụng tiêu thực hoà trung, kiện tỳ khai vị; cốc nha sao lại tiêu thực; còn cốc nha tiêu (sao cháy) có tác dụng làm tiêu tích trệ.
Công dụng: Kê thuộc loại lương thực thường dùng trong nhân dân. Cũng được dùng làm thuốc chữa lậu nhiệt, ho nhiệt, ho khan.
Ở Ấn độ, người ta dùng ngoài trị thấp khớp và là vị thuốc gia dụng làm dịu các cơn đau do sinh đẻ.
Ở Trung quốc, hạt dùng nấu cháo cho người đau dạ dày và bột các hạt đã rang, pha với nước mật dùng cho trẻ em bị bệnh nhọt. Cốc nha dùng chữa ăn uống không tiêu, bụng đầy miệng hôi, tỳ vị hư yếu; kém ăn; cốc nha sao dùng trị kém ăn; cốc nha tiêu dùng trị tích trệ không tiêu. Liều dùng 9-15g.
Đơn thuốc:
1. Chữa âm hư háo khát, mỏi mệt bải hoải sau những buổi thức đêm mất ngủ hay lao động, phòng dục quá độ, trong người hấp nóng, ho, mồ hôi trộm, khó ngủ: dùng hạt Kê nấu chè đường ăn thì mát khoẻ, lại sức.
Lượng vitamin B1, B2 có trong hạt kê cao hơn từ 1 – 1,5 lần so với lúa gạo. Ngoài ra trong hạt kê còn có chứa nhiều nguyên tố vi lượng khác như methionine (một amino axit thiết yếu) vì thế hạt kê có tác dụng duy trì tế bào não, tăng cường trí nhớ và làm giảm quá trình lão hóa.

HẠT SEN và Công dụng

 

Không chỉ là món ăn ngon, bổ, hạt sen còn là vị thuốc quý trong đông y. Xin giới thiệu tám bài thuốc đơn giản từ hạt sen.Theo tài liệu cổ thì hạt sen (liên nhục) vị ngọt, sáp (làm cho chặt lại, kín lại), tính bình (không nóng, không lạnh), có tác dụng chữa di tinh, mộng tinh, an thần, ỉa chảy, mất ngủ, chậm tiêu, đầy bụng, ăn kém, chữa khát do sốt cao, mất nước.

Liều dùng 6-12g/ngày dưới dạng thuốc sắc hoặc thuốc bột.
1 – Chữa mất ngủ:
Hằng ngày nấu chè hạt sen ăn vào buổi chiều hoặc tối, có hạt sen tươi càng tốt.
2 – Trẻ em ỉa chảy kéo dài, gầy yếu kém ăn: 

Hạt sen sấy khô, gạo tẻ rang vàng, hai thứ liều lượng bằng nhau (khoảng 150-200g) tán bột, mỗi ngày cho ăn 6-8g vào lúc đói.
3 – Phụ nữ hay bị sảy thai:
Hạt sen 1kg bỏ vỏ ngoài và tim, củ mài (tươi thì 5kg, khô thì 2kg) hai thứ cùng sao vàng, tán mịn, viên với hồ nếp bằng hạt nhãn, mỗi ngày ăn hai lần, mỗi lần 10 viên vào lúc đói.
4 – Trẻ con nóng khát:
Hạt sen 20g, bèo cái 2 cây, gừng tươi 2 lát, đổ một tô nước đun kỹ, cho uống thay nước chè.
5 – Chữa di tinh, đái đục:
Hạt sen 100g (bỏ vỏ, bỏ tim) sao vàng, bạch linh 20g (mua ở hiệu thuốc đông y) hai thứ cùng tán bột, uống với nước lọc vào lúc gần đi ngủ, mỗi lần 1 thìa cà-phê.
6 – Chữa lòi dom:
Hạt sen 50g tẩm rượu để khô, sao vàng, nấu chung với núm đuôi lợn (đoạn ruột sát đuôi, lấy 15- 20cm) thật kỹ, thêm tý muối, ăn vào buổi sáng, cứ vài ba ngày ăn 1 lần, sau 5 lần sẽ kiến hiệu.
7 – Chữa thiếu máu, ít ngủ, kém ăn:
Hạt sen hầm với thịt ba chỉ, ăn hằng tuần liền.
8 – Bồi dưỡng cho phụ nữ mới sinh hoặc mới điều hòa kinh nguyệt:
Chọn gà nhỏ, cỡ 400-500g/con, mổ bỏ ruột, cho hạt sen và ý dĩ (bo bo), gạo nếp, mỗi thứ một nhúm (vo sạch) vào bụng gà, khâu lại, nấu thật nhừ cho ăn. Cứ 2-3 ngày lại ăn một bữa như thế.

 

GẠO LỨT -Hạt của Sự Sống



Hạt gạo không chỉ nuôi sống con người bao đời nay nhưng cũng là sản phẩm dinh dưỡng có giá trị. Ðầu tiên phải nói tới gạo lức là loại gạo còn giữ lại một phần vỏ cám bên ngoài hạt gạo trong quá trình chế biến.
Bộ Nông Nghiệp Hoa Kỳ (USDA) thường nhấn mạnh đến nhóm ngũ cốc nguyên hạt (whole grains), như gạo lức, là thành phần chủ yếu trong chế độ dinh dưỡng. Gạo lức cung cấp nhiều thành phần carbohydrate, vitamin nhóm B, chất xơ, chất dầu, sắt, kali, kẽm, các yếu tố vi lượng và chất khoáng, được tìm thấy nhiều ở phần bọc ngoài của hạt gạo lức. Một cup gạo lức nấu chín cung cấp khoảng 230 calories, 3,5 gram chất xơ, 5 gram chất đạm, 50 gram carbohydrate và các chất sinh tố Vitamin B 6, Thiamin B 1, Riboflavin B 2, Niacin B 3, Folacin, Vìtamin E, cùng các chất khoáng khác.
Tuy nhiên, giá trị dinh dưỡng của gạo lức còn gia tăng  hơn nữa khi gạo đươc đem ngâm trong nước ấm, lâu khoảng 22 giờ.
Thật vậy,một nhóm các nhà khoa học Nhật Bản đã tìm thấy gạo lức ngâm lâu 22 tiếng đồng hồ vào nước ấm chứa rất nhiều chất bổ dưỡng vì gạo lức ở trạng thái nẩy mầm. Giáo sư Hiroshi Kayahara thuộc Đại  học  Shinshu (Nagarro), trưởng nhóm nghiên cứu, cho biết “Các enzyme ngủ trong hạt gạo ở trạng thái này được kích thích hoạt động và cung cấp tối đa các chất dinh dưỡng.”
Theo gi áo s ư Kayahara th ì “Mầm gạo lức chứa nhiều chất xơ, vitamins và chất khoáng hơn là gạo lức chưa ngâm nước“.  Gạo lức đã ngâm nước chứa gấp ba lần chất lysine ( một loại amino acid cần thiết cho sự tăng trưởng và bảo trì các mô tế bào cơ thể con người), và chứa mười lần nhiều hơn chất gamma-aminobutyric acid(, một chất acid tốt bảo vệ  thận ).  Các khoa học gia cũng tìm thấy trong mầm gạo lức có  một loại enzyme, có tác dụng ngăn chặn prolylendopeptidase và điều hòa các hoạt động ở trung ương não bộ.Giáo sư Kayahara nói thêm “Gạo lức nẩy mầm không những chỉ đem lại nhiều chất dinh dưỡng mà còn nấu rất dễ dàng và cung ứng cho chúng ta một khẩu vị hơi ngọt vì các enzymes đã tác động vào các chất đường và chất đạm trong hạt gạo. Gạo trắng không nẩy mầm khi ngâm như vậy.”
Theo nhiều nghiên cứu khoa học thì  chất xơ trong gạo lức cũng giúp phòng ngừa các bệnh liên quan đến đường tiêu hóa và bệnh tim mạch. Viện Ung Thư Quốc Gia Hoa Kỳ khuyến cáo nên dùng 25 gram chất xơ mỗi ngày.  Với một cup cơm gạo lức cung cấp 3.5 g, trong khi đó một cup cơm gạo trắng chỉ cho có 1 g.
Một thành phần quan trọng khác là chất dầu trong vỏ bọc ngoài của gạo lức có tác dụng giảm cholesterol trong máu, một yếu tố quan trọng gây nên bệnh tim mạch.  Các nhà khoa học đã tìm thấy ở trong chất cám bọc ngoài hạt gạo lức có chất dầu tên là tocotrienol factor (TRF) có tác dụng khử trừ những chất hóa học gây nên hiện tượng đông máu và đồng thời giảm cholesterol.  Bác sĩ Asaf Qureshi thuộc viện đại họcWisconsin( Hoa Kỳ) đã thử nghiệm TRF trên một số người và cho kết quả giảm cholesterol từ 12 đến 16%.  Ngoài ra, trong chất cám bọc ngoài gạo lức còn có thêm một chất khác có khả năng chống lại chất xúc tác enzyme HMG-CoA, một chất có khuynh hướng giúp gia tăng lượng cholesterol xấu LDL.
Chính vì vậy, gạo lức là một loại thực phẩm nhiều dinh dưỡng khi so sánh với gạo trắng. Các nghiên cứu cho thấy những thành phần có trong gạo lức giúp cho việc phòng ngừa các bệnh thuộc hệ tiêu hóa và tim mạch. Ðể giảm cân , có hệ tiêu hóa hoạt động tốt và giảm cholesterol-huyết nhiều người đã chọn gạo lức thay cho gạo trắng.
          Cây lúa hạt gạo, “Ngọc Thực của thiên nhiên – Hiển Mai-06/20/2008
          Khám phá mới về gạo lức – Tâm Linh-(do bạn Bao Nguyên chuyển tới)

ĐẬU ĐỎ- Món ăn bổ dưỡng

Kem, chè, xôi, cháo và cả bánh làm từ đậu đỏ đều rất ngon nhưng làm thế nào để chúng trở thành những bài thuốc quý và phát huy tối đa sự bổ dưỡng thì không phải ai cũng biết. Nhắc đến đậu đỏ chúng ta nghĩ ngay đến hương vị thơm ngon của bánh đậu đỏ hay chè đậu đỏ. Đây là những món ăn yêu thích của phái nữ nhưng nếu biết bản thân đậu đỏ có chứa chất béo, khi kết hợp với một lượng đường lớn như hai món trên thì…Vậy nên, vấn đề ở đây là nên chế biến như thế nào để phái nữ chúng ta vẫn duy trì được món ăn ưa chuộng này?
Theo bác sĩ Nguyễn Công Đức, một người viết rất nhiều sách về y học thì cách giải quyết rất đơn giản: giảm lượng đường khi chế biến với đậu đỏ. Vị ngọt nguyên chất của đậu đỏ vừa được giữ nguyên lại vừa có lợi cho tiêu hoá.
Khi chế biến đậu đỏ với quá nhiều đường trắng, hiệu quả kích thích tiêu hoá của đậu đỏ (khả năng hấp thụ vitamin B1) giảm đi một nửa. Hơn nữa sự kết hợp này còn làm tăng chất béo, gây táo bón và làm các chất độc bị tích trữ lại khiến da trở nên xấu xí.
Bạn có thể thay thế đường kính bằng đường mật hay mật ong thì hiệu quả kích thích tiêu hoá của món đậu sẽ tăng lên gấp nhiều lần.
Sẽ rất tốt khi kết hợp đậu đỏ với các chất tinh bột khác để chế biến thành những món ăn bổ dưỡng như cơm đậu đỏ, xôi đậu đỏ, cháo đậu đỏ, chè đậu đỏ, bánh đậu đỏ….
Thuốc giải độc
Vì trong đậu đỏ rất giàu vitamin B và một lượng lớn thành phần tinh chất kiềm thạch nên đậu đỏ còn có khả năng giải độc cao.
Vỏ đậu đỏ giúp cho nhu động ruột hoạt động tốt nhờ đó loại bỏ các chất cặn bã bám ở thành ruột. Đồng thời các tinh chất kiềm thạch kích thích nhuận tràng bài trừ chất độc.
Xưa nay, đậu đỏ được coi là “cao thủ giải độc”. Nếu bị ngộ độc, bạn hãy cho người bệnh uống ngay một cốc nước đậu đỏ đun với một ít muối, khả năng lợi tiểu sẽ đẩy hết chất độc ra khỏi cơ thể người bệnh. Cũng chính nhờ tác dụng này mà các bác sĩ thường khuyên bệnh nhân bị tê phù, bệnh tim, phù thận…. nên sử dụng đậu đỏ.
Chữa suy nhược cơ thể
Mỗi khi cơ thể mệt mỏi, uống ngay một ly nước đậu đỏ bạn sẽ thấy sảng khoái vô cùng.
Còn nếu bạn cảm thấy cơ thể và trí óc nặng nề, bạn nên ăn một bát canh đậu đỏ mặn để tiêu trừ cảm giác này. Muốn ăn ngọt, bạn có thể cho thêm ít mật ong, nhưng thực sự thì đậu đỏ có vị mặn sẽ hiệu quả hơn nhiều.
Những người bị bệnh khó đại tiểu tiện hay thận yếu cũng nên ăn món ăn này vì món canh đậu đỏ lợi tiểu vô cùng!
Tốt cho phụ nữ mang thai
Các bà mẹ đang mang thai có biết rằng thường xuyên ăn đậu đỏ giúp có nhiều sữa hơn và hormone trong cơ thể cũng được cân bằng hơn không? Nếu biết rồi thì các bạn nên chế biến món ăn bổ dưỡng này nhé!
Đậu đỏ có nhiều tác dụng cho sức khoẻ cho chúng ta. Hãy chế biến món ăn này cho mình và người thân! Tốt nhất là hãy nấu đậu đỏ với vài chiếc lá trúc hay vài miếng thân trúc vì trúc làm đậu đỏ nhanh chín hơn nhiều đấy!

ĐƯỜNG – Hiểm họa của Nhân loại

Theo quan điểm Thực dưỡng: Đường thịnh âm càng tinh khiết, Âm tính càng cao!

Đường trắng - Càng tinh khiết càng độc hại
Ăn đường sẽ sinh ra nhiều nước và CO2. Đường tinh chế là Calo rỗng, vì không có các Vitamin, khoáng cần cung cấp cho sự chuyển hóa chính nó, nên khi ăn đường trắng, cơ thể phải huy động Vitamin, khoáng dự trữ hoặc từ các bộ phận khác để tiêu hóa.
Hơn thế, đường vào cơ thể sẽ tạo phản ứng axit làm chua máu. Để trung hòa, cơ thể phải huy động Caxi vào máu, do vậy làm loãng xương, hư răng!
Mặt khác trong quá trình sản xuất đường phải xử lý nhiều chất độc. Vì vậy, đường trắng là tinh hoa của sự độc hại mà nền văn minh và kỹ nghệ tiên tiến sản sinh ra!
Đường trắng sát nhân còn khủng khiếp hơn cả thuốc phiện và chiến tranh. Đặc biệt là đối với những dân tộc lấy thảo mộc làm thực phẩm chính”. (Tiên sinh Ohsawa)
Trong khi đường thô vẫn còn các chất khoáng như Ca, K, các sinh tố nhóm B nên ít gây tổn hại cho xương do ít làm chua máu.
Ở các nước công nghiệp phát triển, hiện nay người dân đã hiểu đường trắng công nghiệp là có hại, thì một số nhà kinh doanh lại dùng phẩm màu nhuộm vàng đường trắng để làm giả đường nhập từ các nước đang phát triển.
Thế là hạt đường bị hai lần tẩm độc! 
Đường Xylitol ( loại đường hóa học dùng làm kẹo cao su ngày nay được qảng cáo ở nhiều nơi) còn gây ung thư Gan.
Ngày càng có nhiều bằng chứng cho thấy sự tiêu thụ quá nhiều đường cộng với sự sử dụng bừa bãi thuốc kháng sinh, và lạm dụng vaxin là một trong những nguyên nhân gây ra các nguồn bệnh.
Với những bằng chứng trên, thành thực khuyên Bạn đọc không nên ăn nhiều đường và các sản phẩm của đường!

Thực dưỡng hiện đại (Lương Trung Hưng)

Thực dưỡng hiện đại theo quan điểm ông Lương Trung Hưng

Gạo lứt chỉ là phương tiện, cho nên nếu bạn biết thực dưỡng thì không cần gạo lứt (nghĩa là bạn ăn gạo trắng), bạn vẫn có thể mạnh khõe, giãi trừ bệnh tật, sống vui, vô bệnh !
 
Tuy cái cần yếu là bạn biết cái gì nên ăn NHƯNG quan trọng hơn là bạn biết cái gì không nên ăn tùy theo tình trạng của cơ thể bạn lúc đó !
 

GLMM số 7 không phải là Thực Dưỡng mà GLMM số 7 là một phần của Thực Dưỡng. Hầu hết người Thực Dưỡng đều biết lợi ích và khả năng kỳ diệu của GLMM số 7, nhưng nó là khắc tinh của : người bệnh nặng trầm kha, người lệ thuộc quá nhiều và quá lâu vào thuốc Tây làm bằng hóa chất, người mà khả năng tiêu hóa và biến dưỡng tồi tệ......
 
Vì vậy người Thực Dưỡng vẫn có thể ăn gạo trắng (khi không có gạo lứt) mà có sức khỏe tốt vì họ biết họ cần thêm những gì, trong khi người phi Thực Dưỡng thì không biết nên họ mới dể mắc bệnh và bệnh dai dẳng !
 

Thực Dưỡng không phải là ăn chay, mà cũng chả phải ăn mặn mà là như tôi đã phân tích: 

1)                  Đạm động vật hoặc nếu ăn chay thì thay vì ăn cá tép con thì ăn trứng, sửa.....liều lượng từ 1% (cho người ít hoạt động) đến 10% (cho người khõe mạnh và hoạt động nhiều về thể chất) trong tổng số thực phẩm.
2)                  Tinh bột : Dùng gạo lứt và ngũ cốc lứt với liều lượng 50% - 60% trong tổng số thực phẩm.
3)                  Chất béo : Dùng các loại hạt như mè, hạt bí, hạt hướng dương, hạt óc chó (walnut), dầu mè, dầu cám gạo, dầu ô liu.....

Ngoài ra cần các thức ăn thực dưỡng : tamari, miso, natto, tekka, sắn dây, mơ muối, dentie, dưa muối cám, canh dưỡng sinh.....cùng với 25% - 30% các loại rau củ nấu chín.
 
Có thể dùng thêm trợ phương PHSL (Age Reviver), Alive Probiotic (viên nang 25 tỷ vi khuẩn hữu ích) nếu cảm thấy cần.
 
Nếu vì lý do gì mà bạn không có cơm lứt mà ăn cơm trắng thì ít nhất 1 chén cơm phải có 1 chén rau củ nấu chín.
 
Dĩ nhiên là phải đọc các loại sách thực dưỡng : sách cổ và sách hiện đại.....và tự mình rút ra cách đúng nhất cho chính bản thân, sau đó là truyền đạt cho người khác !
 
 
Ăn Thực Dưỡng hiện đại là an toàn, chửa bệnh mau lành, có kết quả tốt hơn GLMM số 7 vì :
 
1)                   Cơ thể tự giải trừ chất độc (tống độc) theo khả năng lục phủ, ngũ tạng của bệnh nhân và loại dần ra khỏi cơ thể.
 
Trong khi GLMM số 7, tống độc nhanh hơn khả năng của cơ thể nên gây phản ứng, và chính những phản ứng này làm cho cơ thể chịu không nổi gây ngộ độc, làm cản trở tiến trình lành bệnh, làm bệnh tái đi tái lại, có khi những phản ứng này gây chết người.
 
Nếu tình trạng của bệnh nhân quá tệ hại, theo GLMM số 7 là cầm chắc 100% cái chết trrong tay; trong khi theo Thực Dưỡng hiện đại có rất nhiều người được chửa lành (theo kinh nghiệm và thống kê của Thực Dưỡng thế giới).
 
2)                   Cơ thể người bệnh nặng, bệnh trầm kha......hoàn toàn mất khả năng biến dưỡng từ GLMM số 7, nên rất nguy hiểm, gây xáo trộn nặng nề cho họ và dĩ nhiên là lợi bất cập hại.
 
Tôi xin lập lại GLMM số 7 là khắc tinh của : bệnh trầm kha, bệnh lệ thuộc quá nhiều và qua lâu vào các loại thuốc Tây Y làm bằng hóa chất như : bệnh tiểu đường nặng, bệnh suy tim nặng, bệnh cao áp huyết nặng.....
 

Ngoại trừ những người mang bệnh nặng và đang chửa trị bằng Thực Dưỡng thì tuỳ theo bệnh trạng mà phải kiêng cử một số thức ăn nào đó.
 
Ngoài ra các bạn không cần phải kiêng cử quá mức; tiên sinh Ohsawa từng viết trong nhiều sách của Ngài : nếu bạn hiểu biết và tuân thủ Thực Dưỡng thì bạn có thể ăn bất cứ thứ gì bạn muốn hay sao ?
 
Cá nhân tôi thì tuỳ theo từng lúc : thích ăn giá (cả chín lẫn sống), nấm......thỉnh thoảng lại ăn cà, măng......laị ăn kem, bánh ngọt, sửa, đường (các siêu thị tạp hóa ở Úc có bán loại đường cát đen gọi là "dark brown sugar" rất ngon), cà phê, kem lạnh..... là những thứ rất âm mà hầu hết người Thực Dưỡng đều tìm cách tránh xa.....NHƯNG thưa các bạn, cơ thể chúng ta cần cả âm lẫn dương ! và quan trọng nhất là lượng mà bạn ăn vào ! Vì lượng hóa phẩm mà ! Nếu bạn ăn các loại rất âm với lượng nhỏ thì nó chẳng những không hại mà có khi có lợi nữa !
 
Tôi lấy ví dụ : con khỉ mà không ăn chuối thì chúng không khoẽ vì trong thiên nhiên chúng leo trèo quá mức; cho nên tự nhiên chúng rất thèm chuối và luôn tìm chuối để ăn cho không mằc bệnh ! (Còn tôi khi ăn chuối thì hấp chín trước khi ăn và trước đó tôi ăn nhiều rau, vì tôi hoạt động ít hơn con khỉ nhiều lần).
 
Cho nên nếu bạn là người hoạt động thể chất nhiều thì nên dùng thêm chút ít thức ăn âm cho nó quân bình !
 
Cái chính là sau khi bạn ăn, bạn phải để ý xem cơ thể bạn khõe hay yếu hơn ? Có gây trở ngại hay bệnh củ tái phát không ?
 
Còn cách chế biến nữa ! Nếu là cà tím thì nên nướng cho cháy võ, cho chín bên trong và dầm với nước mắm hay ăn với mắm kho thì bạn đã dương hóa trái cà rồi ! Cái rất âm của quả cà tím không còn nữa !
 
Nếu bạn đang ăn theo số 7 thì coi chừng : bạn ăn bất cứ thứ gì khác bạn cũng sẽ bị phản ứng ngay tức thì !
 
Còn nếu bạn không ăn theo số 7 thì các loaị rau rất cần và thân thiết với bạn và bạn nên ăn thường xuyên mới đúng chứ ! Ít nhất rau cũng phải chiếm 1/2 so với ngũ cốc !
 
Là người Thực Dưỡng bạn cần có dồi dào sức khõe và có thể ăn bất cứ thứ gì tùy thích !
 

Ohsawa cũng nói đến Thực dưỡng thực sự trong một đoạn trong cuốn "Nội lực tự sinh":
 
Một vị thiền sư già mắc chứng xuất huyết ở não, một ống chân bị bại, lại mang chứng tiểu tiện bất cấm, vì sợ phạm tội bất kính trước Phật đài mỗi khi lễ bái hoặc tham thiền nên đến nhờ tôi chữa bệnh.
 
Sau khi thăm bệnh tôi ra thực đơn ghi thêm cách kho 12gr cá với nước tương để dùng 2 lần mỗi tuần.
 
Thấy vậy nhà sư bối rối bảo rằng:
 
n            Khó lòng quá, suốt đời tôi không bao giờ ăn cá cả, đã 75 năm rồi!
 
Tôi điên đầu vì vấn đề này!!! Tôi nghĩ nát nước…Tôi liền thay thế món cá bằng thứ rễ cây bồ công anh.
 
Bốn mươi ngày sau, vị sư già trở lại, khoẻ mạnh như một chàng trai. Nước tuểu đã giảm đến hai phần ba, ông đi lại như thường rồi.
 
Tuy nhiên để khỏi băn khoăn, tôi phái một trong những môn sinh của tôi đến tại chùa để quan sát cách nấu nướng và lối ăn uống của vị thiền sư như thế nào. Lúc trở về, người môn sinh ấy trình rằng:
 
n            Lạ quá! Canh nấu với miso thì lõng bõng cả nước là nước, cơm thì nửa sống nửa chín, món bồ công anh xào khô thì để cả củ như lẻ củi tròn… Úi chà chà! Thế mà vị lão sư ăn một cách điềm nhiên.
 
Một lần nữa tôi lại điên đầu!!! Chẳng lẽ điều quan trọng không nằm ở thực phẩm? Điều quan trọng cơ bản là ở niềm tin hay nội lực? Hay là ở nội tâm?
George Ohsawa